Thời kỳ 1946-1990 trong lịch sử thế giới được gọi là Chiến tranh Lạnh. Đồng thời, cuộc chiến này không đồng nhất: nó đại diện cho một loạt các cuộc khủng hoảng, xung đột quân sự địa phương, các cuộc cách mạng và biến động, cũng như bình thường hóa các mối quan hệ và thậm chí là "sự nóng lên" của chúng. Một trong những giai đoạn "nóng" nhất của Chiến tranh Lạnh là cuộc khủng hoảng Caribbean, một cuộc khủng hoảng khi cả thế giới đóng băng, chuẩn bị cho điều tồi tệ nhất.
Tiền sử và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng Caribbean
Năm 1952 tại Cuba, là kết quả của một cuộc đảo chính quân sự, nhà lãnh đạo quân sự F. Batista lên nắm quyền. Cuộc đảo chính này đã gây ra sự phẫn nộ rộng rãi trong giới trẻ Cuba và bộ phận có tư tưởng tiến bộ trong dân chúng. Fidel Castro trở thành lãnh đạo phe đối lập của Battista, người đã có mặt vào ngày 26 tháng 7 năm 1953 với hai cánh tay trong tay, lên tiếng chống lại chế độ độc tài. Tuy nhiên, cuộc nổi dậy này (vào ngày này, phiến quân đã xông vào doanh trại của Moncada) hóa ra không thành công, và Fidel và những người ủng hộ còn sống của ông đã phải vào tù. Chỉ nhờ vào phong trào chính trị xã hội mạnh mẽ ở nước này, phiến quân đã được ân xá ngay từ năm 1955.
Sau đó, F. Castro và những người ủng hộ ông đã phát động một cuộc chiến tranh đảng phái toàn diện chống lại các lực lượng chính phủ. Chiến thuật của họ sớm bắt đầu có kết quả, và vào năm 1957, quân đội của F. Batista đã phải chịu một loạt thất bại nghiêm trọng ở vùng nông thôn. Đồng thời, sự phẫn nộ chung về chính sách của nhà độc tài Cuba đã tăng lên. Tất cả các quá trình này dẫn đến cuộc cách mạng, dự kiến sẽ kết thúc với chiến thắng của phiến quân vào tháng 1 năm 1959. Fidel Castro trở thành người thống trị thực tế của Cuba.
Lúc đầu, chính phủ mới của Cuba đã tìm cách tìm một ngôn ngữ chung với người hàng xóm phía bắc đáng gờm của mình, nhưng sau đó, Tổng thống Hoa Kỳ D. Eisenhower thậm chí không từ chối chấp nhận F. Castro. Rõ ràng là sự khác biệt về ý thức hệ giữa Hoa Kỳ và Cuba không thể cho phép họ đến gần hơn với phạm vi đầy đủ. Đồng minh hấp dẫn nhất của F. Castro dường như là Liên Xô.
Sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao với Cuba, giới lãnh đạo Liên Xô đã thiết lập thương mại với nước này và cung cấp cho nó sự hỗ trợ to lớn. Hàng chục chuyên gia Liên Xô, hàng trăm bộ phận và hàng hóa quan trọng khác đã được gửi đến đảo. Quan hệ giữa các nước rất nhanh chóng trở nên thân thiện.
Chiến dịch "Anadyr"
Một trong những nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng Caribbean không phải là một cuộc cách mạng ở Cuba hay một tình huống liên quan đến những sự kiện này. Năm 1952, Thổ Nhĩ Kỳ gia nhập NATO. Từ năm 1943, tiểu bang này có định hướng thân Mỹ, kết nối, trong số những thứ khác, với khu vực lân cận Liên Xô, mà quốc gia này không có quan hệ tốt nhất.
Năm 1961, việc triển khai tên lửa đạn đạo tầm trung của Mỹ có đầu đạn hạt nhân bắt đầu ở Thổ Nhĩ Kỳ. Quyết định này của giới lãnh đạo Mỹ đã bị quyết định bởi một số trường hợp, chẳng hạn như tỷ lệ tiếp cận tên lửa như vậy cao hơn đối với các mục tiêu, cũng như khả năng gây áp lực lên lãnh đạo Liên Xô về ưu thế hạt nhân rõ ràng hơn của Mỹ. Việc triển khai tên lửa hạt nhân ở Thổ Nhĩ Kỳ đã làm đảo lộn nghiêm trọng sự cân bằng của các lực lượng trong khu vực, khiến giới lãnh đạo Liên Xô rơi vào tình thế gần như không thể. Sau đó, người ta đã quyết định sử dụng đầu cầu mới gần như ở bên cạnh Hoa Kỳ.
Giới lãnh đạo Liên Xô đã kêu gọi F. Castro với đề nghị đặt vào Cuba 40 tên lửa đạn đạo của Liên Xô với đầu đạn hạt nhân và sớm nhận được phản ứng tích cực. Sự phát triển của Chiến dịch Anadyr bắt đầu tại Bộ Tổng tham mưu Liên Xô tối cao Liên Xô. Mục đích của chiến dịch này là triển khai tại Cuba các tên lửa hạt nhân của Liên Xô, cũng như một đội ngũ quân sự gồm khoảng 10 nghìn người và một lực lượng không quân (máy bay trực thăng, tấn công và máy bay chiến đấu).
Mùa hè năm 1962, Chiến dịch Anadyr bắt đầu. Nó được đi trước bởi một loạt các hoạt động ngụy trang mạnh mẽ. Vì vậy, thông thường các thuyền trưởng của các tàu vận tải không biết họ đang vận chuyển loại hàng hóa nào, chứ đừng nói đến nhân viên, những người thậm chí không biết nơi chuyển giao đang diễn ra. Để che dấu ở nhiều cảng của Liên Xô dự trữ hàng hóa thứ cấp. Vào tháng 8, các tàu vận tải đầu tiên của Liên Xô đã đến Cuba và việc lắp đặt tên lửa đạn đạo bắt đầu vào mùa thu.
Sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng Caribbean
Vào đầu mùa thu năm 1962, khi lãnh đạo Mỹ thấy rõ rằng các căn cứ tên lửa của Liên Xô ở Cuba, có ba lựa chọn hành động trong Nhà Trắng. Những lựa chọn này: phá hủy các căn cứ thông qua các cuộc tấn công chính xác, cuộc xâm lược Cuba hoặc giới thiệu một cuộc phong tỏa biển của hòn đảo. Từ lựa chọn đầu tiên đã phải từ bỏ.
Để chuẩn bị cho cuộc xâm lược hòn đảo, quân đội Mỹ bắt đầu di chuyển đến Florida, nơi tập trung của họ diễn ra. Tuy nhiên, việc đưa các tên lửa hạt nhân của Liên Xô ở Cuba vào tình trạng báo động hoàn toàn khiến cho lựa chọn xâm lược toàn diện trở nên rất mạo hiểm. Có một cuộc phong tỏa biển.
Dựa trên tất cả các dữ liệu, sau khi cân nhắc tất cả các ưu và nhược điểm, Hoa Kỳ tuyên bố kiểm dịch đối với Cuba vào giữa tháng Mười. Từ ngữ này được đưa ra bởi vì tuyên bố phong tỏa sẽ là một hành động chiến tranh và Hoa Kỳ là kẻ xúi giục và kẻ xâm lược, vì việc triển khai tên lửa hạt nhân của Liên Xô ở Cuba không vi phạm bất kỳ điều ước quốc tế nào. Nhưng, theo logic lâu đời của nó, nơi "kẻ mạnh luôn luôn đúng", Hoa Kỳ tiếp tục kích động một cuộc xung đột quân sự.
Sự ra đời của kiểm dịch, bắt đầu vào ngày 24 tháng 10 lúc 10:00, chỉ cung cấp một sự chấm dứt hoàn toàn nguồn cung cấp vũ khí cho Cuba. Là một phần của chiến dịch này, Hải quân Hoa Kỳ đã bao vây Cuba và bắt đầu tuần tra vùng biển ven bờ, trong khi được hướng dẫn không nổ súng vào các tàu Liên Xô bằng mọi cách. Vào thời điểm này, khoảng 30 tàu Liên Xô đã được chuyển đến Cuba, bao gồm cả những tàu mang đầu đạn hạt nhân. Một phần của các lực lượng này, nó đã được quyết định gửi trở lại để tránh xung đột với Hoa Kỳ.
Khủng hoảng phát triển
Đến ngày 24 tháng 10, tình hình xung quanh Cuba bắt đầu nóng lên. Vào ngày này, Khrushchev đã nhận được một bức điện tín từ tổng thống Mỹ. Trong đó, Kennedy yêu cầu phải quan sát việc kiểm dịch Cuba và "giữ gìn sự thận trọng". Khrushchev trả lời telegram khá gay gắt và tiêu cực. Ngày hôm sau, tại một cuộc họp khẩn cấp của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, một vụ bê bối đã nổ ra do một cuộc giao tranh giữa các đại diện của Liên Xô và Mỹ.
Tuy nhiên, cả lãnh đạo Liên Xô và Mỹ đều hiểu rõ rằng việc cả hai bên leo thang xung đột là hoàn toàn vô nghĩa. Vì vậy, trong chính phủ Liên Xô đã quyết định tham gia một khóa học về bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ và các cuộc đàm phán ngoại giao. Vào ngày 26 tháng 10, Khrushchev đã tự mình viết một lá thư gửi cho lãnh đạo Mỹ, trong đó ông đề nghị rút tên lửa của Liên Xô khỏi Cuba để đổi lấy việc kiểm dịch, Mỹ từ chối xâm chiếm đảo và rút tên lửa của Mỹ khỏi Thổ Nhĩ Kỳ.
Vào ngày 27 tháng 10, giới lãnh đạo Cuba đã nhận thức được các điều kiện mới của giới lãnh đạo Liên Xô để giải quyết cuộc khủng hoảng. Trên đảo, họ đang chuẩn bị cho một cuộc xâm lược có thể của Mỹ, mà theo dữ liệu có sẵn, sẽ bắt đầu trong ba ngày tới. Báo động bổ sung gây ra chuyến bay của máy bay trinh sát Mỹ U-2 qua đảo. Nhờ các hệ thống tên lửa phòng không S-75 của Liên Xô, máy bay đã bị bắn hạ, và phi công (Rudolf Anderson) đã thiệt mạng. Cùng ngày, một chiếc máy bay Mỹ khác đã bay qua Liên Xô (qua Chukotka). Tuy nhiên, trong trường hợp này, mọi thứ đều không có thương vong: việc đánh chặn và hộ tống máy bay của các máy bay chiến đấu Liên Xô.
Sự lo lắng chiếm ưu thế trong giới lãnh đạo Mỹ ngày càng tăng. Tổng thống quân sự đã khuyên Kennedy nên tiến hành một chiến dịch quân sự chống lại Cuba nhằm vô hiệu hóa các tên lửa của Liên Xô trên đảo càng sớm càng tốt. Tuy nhiên, một quyết định như vậy sẽ vô điều kiện dẫn đến một cuộc xung đột và phản ứng quy mô lớn từ Liên Xô, nếu không phải ở Cuba, thì ở một khu vực khác. Không ai cần một cuộc chiến toàn diện.
Giải quyết xung đột và ảnh hưởng của khủng hoảng Caribbean
Trong các cuộc đàm phán giữa anh trai của Tổng thống Hoa Kỳ Robert Kennedy và Đại sứ Liên Xô Anatoly Dobrynin, các nguyên tắc chung đã được đưa ra, trên cơ sở đó là nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng đã được tạo ra. Những nguyên tắc này là cơ sở cho một thông điệp từ John Kennedy, được gửi đến điện Kremlin vào ngày 28 tháng 10 năm 1962. Thông điệp này cho thấy giới lãnh đạo Liên Xô đã rút tên lửa của Liên Xô khỏi Cuba để đổi lấy sự bảo đảm không xâm lược từ Hoa Kỳ và loại bỏ khu vực cách ly đảo Đảo. Liên quan đến tên lửa của Mỹ ở Thổ Nhĩ Kỳ, đã tuyên bố rằng vấn đề này cũng có triển vọng giải quyết. Giới lãnh đạo Liên Xô, sau một số cân nhắc, đã phản ứng tích cực với thông điệp của J. Kennedy, và cùng ngày tại Cuba đã bắt đầu tháo dỡ tên lửa hạt nhân của Liên Xô.
Các tên lửa cuối cùng của Liên Xô từ Cuba đã được gỡ bỏ sau 3 tuần, và vào ngày 20 tháng 11, J. Kennedy tuyên bố chấm dứt kiểm dịch Cuba. Cũng sớm, tên lửa đạn đạo của Mỹ đã được rút khỏi Thổ Nhĩ Kỳ.
Cuộc khủng hoảng Caribbean đã được giải quyết khá thành công cho toàn thế giới, nhưng không phải ai cũng hài lòng với hiện trạng. Do đó, cả ở Liên Xô và Hoa Kỳ, dưới các chính phủ, đều có những người có thứ hạng cao và có ảnh hưởng quan tâm đến việc leo thang xung đột và kết quả là khá thất vọng với sự gièm pha của nó. Có một số phiên bản là nhờ sự giúp đỡ của họ mà J. Kennedy đã bị giết (ngày 23 tháng 11 năm 1963) và N. Khrushchev đã bị di dời (năm 1964).
Kết quả của cuộc khủng hoảng Caribbean năm 1962 là sự gièm pha quốc tế, thể hiện ở việc cải thiện quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô, cũng như trong việc tạo ra một số phong trào phản chiến trên toàn thế giới. Quá trình này diễn ra ở cả hai quốc gia và trở thành một loại biểu tượng của thập niên 70 của thế kỷ XX. Kết luận hợp lý của nó là sự gia nhập của quân đội Liên Xô vào Afghanistan và một vòng tăng trưởng căng thẳng mới trong quan hệ giữa Hoa Kỳ và Liên Xô.